, 28/01/2023, 08:26 GMT+7
1. Ung thư cổ tử cung là gì?
Ung thư cổ tử cung là dạng ung thư xuất phát tại cổ tử cung - vùng nối âm đạo và tử cung. Cổ trong cổ tử cung bình thường sẽ có màu hồng với lớp tế bào vảy mỏng và phẳng. Ống cổ tử cung được tạo thành bởi tế bào trụ. Khu vực giao nhau của hai dạng tế bào này được gọi là vùng chuyển tiếp, là nơi các tế bào bất thường hoặc tiền ung thư dễ phát triển nhất.
Khoảng 80-90 % các trường hợp ung thư cổ tử cung là ung thư biểu mô tế bào vảy. 10-20 % còn lại của ung thư cổ tử cung là ung thư tế bào tuyến. Mặc dù ít phổ biến hơn ung thư biểu mô tế bào vảy, tỷ lệ mắc ung thư biểu mô tuyến đang gia tăng, đặc biệt là ở các bạn nữ tuổi đời còn trẻ.
Mỗi năm có hơn 13 ngàn phụ nữ ở Hoa Kỳ bị chẩn đoán mắc ung thư cổ tử cung, và hơn 4 ngàn ca tử vong. Tử vong do ung thư cổ tử cung ở Hoa Kỳ tiếp tục giảm khoảng 2% mỗi năm. Sự suy giảm này chủ yếu là do việc áp dụng rộng rãi xét nghiệm Pap (ThinPrep Pap hoặc Pap smear) để phát hiện bất thường cổ tử cung và cho phép điều trị sớm.
Ung thư cổ tử cung có xu hướng xảy ra ở độ tuổi trung niên. Nó thường được chẩn đoán ở phụ nữ trong độ tuổi từ 35 đến 44. Bệnh hiếm khi ảnh hưởng đến phụ nữ dưới 20 tuổi và hơn 15% chẩn đoán được thực hiện ở phụ nữ trên 65 tuổi. Nhưng ở nhóm phụ nữ trên 65 tuổi, ung thư thường xảy ra ở phụ nữ đã không làm xét nghiệm sàng lọc thường xuyên.
Nhiễm virus HPV gây nguy cơ ung thư cổ tử cung cao hơn
Hầu hết các trường hợp ung thư cổ tử cung là do nhiễm virus HPV. HPV là một loại virus xâm nhập vào tế bào và có thể khiến các tế bào biến đổi. Một số loại HPV có liên quan đến ung thư cổ tử cung cũng như ung thư âm hộ, âm đạo, dương vật, hậu môn, miệng và cổ họng. Các chủng HPV có khả năng gây ung thư được gọi là “chủng có nguy cơ cao.”
Nhiễm virus HPV thường không gây ra triệu chứng. Hầu hết các trường hợp nhiễm HPV đều tự khỏi. Những bệnh nhiễm virus ngắn hạn này thường chỉ gây ra những thay đổi nhẹ (ở mức độ thấp) trong các tế bào cổ tử cung. Các tế bào trở lại bình thường khi nhiễm HPV bị loại bỏ. Nhưng ở một số phụ nữ, HPV không biến mất. Trong trường hợp người bệnh nhiễm phải chủng HPV có nguy cơ cao tồn tại trong một thời gian dài, nó có thể gây ra những thay đổi nghiêm trọng hơn (nguy cơ cao) trong các tế bào cổ tử cung. Những thay đổi này có nhiều khả năng dẫn đến ung thư.
Thường sẽ mất từ 3-7 năm để các thay đổi nguy cơ cao trong các tế bào cổ tử cung biến đổi thành ung thư. Sàng lọc ung thư cổ tử cung có thể phát hiện những thay đổi này trước khi chúng trở thành ung thư.
Sàng lọc ung thư cổ tử cung bao gồm xét nghiệm Pap (ThinPrep Pap hoặc Pap smear, tùy theo chỉ định của bác sĩ), và đối với một số phụ nữ, xét nghiệm HPV. Cả hai xét nghiệm đều sử dụng các tế bào lấy từ cổ tử cung.
Đối với xét nghiệm Pap (ThinPrep Pap hoặc Pap smear), mẫu sẽ được kiểm tra xem có sự hiện diện của tế bào bất thường nào không.
Đối với xét nghiệm HPV, mẫu sẽ được kiểm tra xem có sự hiện diện của 13-14 chủng HPV nguy cơ cao.
Phương pháp xét nghiệm Pap (ThinPrep Pap) cho phép phát hiện tế bào cổ tử cung bất thường
2.4. Nên tầm soát ung thư cổ tử cung bao nhiêu lâu một lần và nên làm xét nghiệm nào?
Thời điểm thực hiện và loại xét nghiệm phụ thuộc vào tuổi và bệnh sử của bạn.
Các bạn nữ từ 21 - 29 tuổi nên làm xét nghiệm Pap (ThinPrep Pap hoặc Pap smear) mỗi 3 năm. Xét nghiệm HPV không được khuyến cáo.
Phụ nữ từ 30 - 65 tuổi nên làm xét nghiệm Pap và HPV đồng thời mỗi 5 năm (ưu tiên). Hoặc người bệnh có thể làm mỗi xét nghiệm Pap mỗi 3 năm cũng được.
Phụ nữ nên ngừng sàng lọc ung thư cổ tử cung sau 65 tuổi nếu không có tiền sử tế bào cổ tử cung bất thường mức độ trung bình hoặc cao hay kết quả ác tính và bạn đã có ba kết quả xét nghiệm Pap âm tính liên tiếp hoặc hai kết quả xét nghiệm đồng âm tính liên tiếp trong vòng 10 năm qua, và kết quả gần đây nhất được thực hiện trong vòng 5 năm qua.
Nếu người bệnh đã phẫu thuật cắt tử cung thì vẫn có thể cần sàng lọc. Quyết định này dựa trên việc liệu cổ tử cung đã được cắt bỏ hay chưa, nguyên nhân cần phải cắt bỏ tử cung và liệu có tiền sử thay đổi tế bào cổ tử cung mức độ vừa hay nặng hay ung thư cổ tử cung trước khi cắt tử cung.Nếu có tiền sử ung thư cổ tử cung hoặc thay đổi tế bào cổ tử cung, vẫn nên tiếp tục sàng lọc trong 20 năm tiếp theo tính từ thời điểm phẫu thuật.
Phụ nữ có tiền sử ung thư cổ tử cung, bị nhiễm virus suy giảm miễn dịch ở người (HIV), có hệ miễn dịch yếu hoặc đã phơi nhiễm với diethylstilbestrol (DES) trước khi sinh có thể cần sàng lọc thường xuyên hơn và không nên tuân thủ các hướng dẫn thường quy này.
Khuyến cáo tầm soát này cũng áp dụng cho người bệnh đã tiêm phòng HPV. Phụ nữ đã được tiêm vắc-xin ngừa HPV vẫn cần tuân theo các khuyến nghị sàng lọc theo nhóm tuổi.
Để giúp ngăn ngừa kết quả âm tính giả hoặc dương tính giả, người bệnh nên tránh thụt rửa, quan hệ tình dục và sử dụng thuốc đặt âm đạo hoặc các sản phẩm vệ sinh trong 2 ngày trước khi thử nghiệm. Cũng nên tránh làm các xét nghiệm sàng lọc ung thư cổ tử cung khi đang có kinh nguyệt.
Bài viết tham khảo nguồn: Hiệp Hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ
***
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY.
Đặt lịch nhanh chóng và theo dõi lịch hẹn thuận tiện hơn qua ứng dụng YouMed.